Bình luận về câu thơ 'Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'

Đề bài: Bình luận về câu thơ 'Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'

Bình luận về câu thơ 'Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'

Bài làm:

Mẫu số 1:

' Thân em như dải lụa đàoBay phất giữa chợ biết vào tay ai'

Câu ca dao ấy truyền đạt như lời than thân, thở dài của người phụ nữ giữa thế giới phong kiến. Đó là xã hội nơi số phận được quyết định bởi cuộc mua bán, trao đổi, và những cuộc hôn nhân chính trị thay vì tình yêu. Một xã hội đen tối đẩy nhân phẩm của họ xuống cảnh đen tối. Cảm thông, Nguyễn Du trong 'Truyện Kiều' đã viết lên hai câu thơ thể hiện sự đau đớn của người phụ nữ trước bàn tay tàn ác của lễ giáo phong kiến:

' Đau đớn thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'.

Hai câu thơ này do Nguyễn Du sáng tác, là lời thánh thót của Kiều trước mộ Đạm Tiên, người phụ nữ kĩ nữ. Đây là lời than thở, niềm đau lòng của Kiều, hay cũng là của Nguyễn Du trước nỗi đau của phụ nữ trong xã hội xưa. Không có từ nào phản ánh chân tình hơn từ 'đớn đau thay'! Lời thơ như là sự thở dài đau đớn của tác giả. Nguyễn Du, trải qua những ngày tháng khó khăn, đói nghèo, hiểu rõ nỗi đau của những số phận nghèo khó và hoàn cảnh đau khổ của phụ nữ. Có lẽ vì vậy, khi sáng tác 'Truyện Kiều', ông đã đặt tâm huyết của mình vào những câu thơ ấy. Nguyễn Du hiểu rõ về 'phận đàn bà', số phận của phụ nữ khi bị chìm đằng sau trong xã hội đặc biệt là xã hội trọng nam khinh nữ. Xã hội ấy làm mất đi quyền lực, hạnh phúc và cả những ước mơ nhỏ bé của họ. Xã hội đó khiến họ trở thành những kẻ 'bạc mệnh'. Đau đớn đến đâu?

'Đớn đau thay phận đàn bàLời rằng bạc mệnh cũng là lời chung'.

Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là trái tim cao quý của ông dành cho phụ nữ Việt Nam xưa - những thân phận 'thấp cổ bé họng' trong xã hội phong kiến.

Nếu hỏi về nguyên nhân gây nên số phận khó khăn của phụ nữ trong xã hội xưa, câu trả lời đầu tiên chính là xã hội. Đó là một xã hội được Nho giáo kiểm soát, nơi phụ nữ không được công bằng, nơi mà đàn bà trở thành hàng hóa để trao đổi, mua bán. Xã hội 'trọng nam khinh nữ', nơi mà mười con gái không đổi được một người đàn ông. Xã hội ấy làm mất quyền tự do, quyền hạnh phúc và thậm chí cả quyền nhỏ bé của phụ nữ. Xã hội đó đã làm cho thân phận của phụ nữ bị đẩy xuống đáy. Họ bị tước đoạt quyền bình đẳng, không được tham gia vào bất kỳ công việc nào bên ngoài, không được học vấn, chỉ biết lưu lạc trong nhà để trở thành một người phụ nữ trong gia đình. Họ bị bóc lột quyền lực như nam giới. Dù xã hội xưa cũng có những người phụ nữ tài năng như bà Trưng, bà Triệu... dám đứng lên bảo vệ quyền tự do của mình, nhưng họ chỉ là một số ít trong số những người phụ nữ dám đối mặt với quyền lực để bảo vệ bản thân mình.

Nguyễn Du thảm thương 'phận đàn bà', những người 'bạc mệnh' phải trải qua đau đớn về thể xác, tinh thần, bị coi thường về nhân phẩm và nhân cách. Chính sự hiểu biết này thúc đẩy ông sáng tác hai câu thơ đau lòng nhất. Phụ nữ phong kiến bị đánh bại, xem như hàng hóa, trao đổi như chợ búa, không được quyền phát ngôn.

'Thân em như tấm lụa đàoPhất phơ giữa chợ, ai biết vào tay nào?'

Họ không được quyền bày tỏ nỗi niềm, như Đạm Tiên, nàng sinh ra nghèo đói, bán thân để sống. Khi chết, chỉ có cỏ xanh làm bạn, không ai thương nhớ, xót xa dù trước đó bao bướm ong dập dìu.

'Sống làm vợ khắp người taĐến khi thác xuống làm ma không chồng'

Không ai còn để ý, chia sẻ tình cảm với người phụ nữ. Như Kiều trong 'Truyện Kiều', mặc dù tài sắc vẹn toàn, nhưng trở thành món hàng trong tay những kẻ buôn bán.

'Cò kè bớt một thêm haiGiờ lâu giá vàng ngoài bốn trăm'

Xã hội phong kiến buộc nàng Kiều phải bán mình để cứu cha và em. Nếu xã hội trọng trọng phụ nữ, nàng có thể tránh khỏi mười lăm năm đau khổ, có tình yêu hạnh phúc với Kim Trọng.

Nguyễn Du không chỉ thương cảm Kiều mà còn dành sự thương cảm cho những phụ nữ bất hạnh trong hôn nhân và tình yêu, bị tàn phá bởi chiến tranh và xa chồng. Xã hội đã cướp đi hạnh phúc, tình yêu, biến họ thành 'hòn vọng phu' chờ chồng.

Tất cả chúng ta mong muốn cuộc sống hạnh phúc, tự do trong tình yêu và hôn nhân. Nhưng trong xã hội xưa, quyết định về hôn nhân không thuộc về phụ nữ. Họ bị ràng buộc bởi lễ giáo, phải tuân theo gia truyền, phải chấp nhận 'môn đăng hộ đối'. Đó là nỗi đau lớn chăng?

Sau những năm sống giữa tầng lớp thấp, Nguyễn Du thấu hiểu thân phận nhỏ bé, bị bất công và mất hạnh phúc của người phụ nữ xưa. Thông qua hai câu thơ, ông thể hiện lòng thương cảm sâu sắc và sự hiểu biết tới đau khổ của họ.

Ngày nay, chúng ta, những người phụ nữ, được sống theo ý muốn của mình. Nhưng vẫn có những người phụ nữ phải đối mặt với bạo lực, xúc phạm và mất mát quyền lợi cơ bản. Những hành động này cần bị lên án và chấm dứt.

Nguyễn Du, qua hai câu thơ, đã khắc sâu hình ảnh và thân phận của người phụ nữ xưa. Ông lên án xã hội phong kiến đã đẩy họ đến bế tắc và trải qua những đau khổ. Thể hiện tình yêu thương và sự bảo vệ đối với những người phụ nữ yếu đuối.

Mẫu số 2:

Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều với trái tim chân thành đối với con người, đặc biệt là sự cảm thông sâu sắc với số phận của người phụ nữ. Qua nhân vật Thúy Kiều, ông tả rõ hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng bất công, đau khổ và khổ đau. Hai câu thơ về người phụ nữ vẫn là niềm đau lưu lại: 'Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung'.

Xã hội phong kiến đã át chặt sức sống, tài năng và vẻ đẹp của vô số hồn nhiên. Một xã hội 'trọng nam khinh nữ', nơi nam nắm quyền và nữ phải tuân thủ. Họ xứng đáng được bao dung, yêu thương và che chở, nhưng kết quả lại đẩy họ vào kịch tính, chịu đựng kiếp số khó khăn.

Cuộc đời con gái, bạch bẽo và bấp bênh, khiến Nguyễn Du không thể giấu nổi 'đau đớn' nghẹn lòng. Đạm Tiên, tài năng và sắc đẹp vẹn toàn, lại chìm đắm trong số kiếp đau thương và cô đơn: 'Sống làm vợ khắp người ta, hạ thay thác xuống làm ma không chồng'. Kiều, với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, tài năng đa dạng, cầm kỳ, thi phú, họa sĩ, xứng đáng với tình yêu và sự trân trọng, nhưng số phận lại trải qua mười lăm năm lưu lạc và kiếp lầu xanh, không hạnh phúc vẹn toàn. Hoạn Thư, thông minh và khéo léo, cũng không đạt được tình yêu từ chồng. Vũ Thị Thiết, tư dung tốt đẹp, sống đoan trang, cuối cùng cũng chọn cái chết để rửa sạch oan trái. Họ là những nạn nhân của chế độ phong kiến tàn bạo, bất công.

Người phụ nữ mất tự do, bị kìm hãm, chà đạp lên nhân phẩm và danh dự, nhưng vẫn giữ lấy tấm lòng mạnh mẽ. Như câu thơ của Hồ Xuân Hương:

“Thân em thời trắng phận em trònBảy nổi ba chìm mấy nước nonRắn nát mặc dầu tay kẻ nặnNhưng em vẫn giữ tấm lòng son”

Số phận bạc mệnh, nhưng họ vẫn giữ cho mình những phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ. Bị kiểm soát và phụ thuộc, họ vẫn giữ lấy những giá trị quan trọng nhất của bản thân mình, không bao giờ mất đi:

“Thân em giống như chiếc lá bần trôiGió cuốn sóng đưa biết hướng nào”.

Thông qua hai câu thơ, Nguyễn Du không chỉ lên án xã hội phong kiến tàn nhẫn, bất công, chà đạp lên quyền tự do và hạnh phúc của con người. Đồng thời, ông cũng chia sẻ lòng bi thương và kêu gọi sự trân trọng, yêu thương đối với những kiếp người chìm đắm trong đau khổ và bất công của xã hội cũ.

Mặc dù đất nước ngày càng phát triển, công bằng giữa nam và nữ cũng được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn những hủ tục lạc hậu và sự chèn ép đối với cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta cần phê phán những hành động như vậy và tôn trọng, đề cao vai trò của phụ nữ, những người chịu nhiều thiệt thòi từ khi ra đời. Hãy trân trọng yêu thương tất cả phụ nữ trên thế gian này, từ người bà, người mẹ đến người chị, người em.

Link nội dung: https://khoaqhqt.edu.vn/dau-don-thay-phan-dan-ba-a36985.html