Loài người có hơn 8.000 ngôn ngữ nhưng chỉ tồn tại hơn 6.000 ngôn ngữ, như vậy có khoảng 6.000 tộc người, nhưng chúng ta để ý thấy chỉ có một số tộc người có chữ viết, tức là những trung tâm văn minh lớn thì mới có chữ viết. Nhân nói về cách tiếp cận chữ viết, chúng ta nói về xu hướng thế này: Rất nhiều tộc không có chữ viết nhưng người ta vẫn tìm cách ghi lại những ký ức xã hội của mình hay tìm cách truyền tải cho nhau thông qua những ký hiệu hoặc biểu tượng. Cho nên những hình vẽ để truyền tải thông tin là tiền thân của loại chữ viết tượng hình và gốc tích của tất cả là tượng hình. Hiện nay chỉ dăm bảy nền văn minh có chữ viết khác nhau chúng ta đã biết. Nhưng từ các loại chữ tượng hình để đạt đến chữ tượng thanh là bước tiến rất lớn của văn minh loài người.
Ở đây, câu chuyện là chúng ta không phải bàn nhiều rằng chữ Hán là chữ tượng hình, không chỉ Trung Quốc, Việt Nam dùng, mà còn có Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... người ta gọi chung là khối chữ vuông, dựa trên Hán tự. Loại chữ tượng hình này, mà chữ Hán chúng ta biết là nếu xét về phương diện thuận lợi hay không thuận lợi cho truyền tải, thực tế tất cả các loại chữ nghĩa đều có giá trị như nhau miễn là thể hiện được, truyền bá được tri thức cho con người. Nhưng xuất hiện một câu chuyện có những ký tự, loại chữ thuận lợi cho mọi người, nhưng có loại chữ quá khó. Ở đây tôi nói chữ Hán là chữ rất khó với 214 bộ thủ, trong khi chữ Việt chúng ta đang dùng là chữ quốc ngữ chỉ 24 chữ cái cộng 5 dấu, như vậy sự giản tiện khác nhau rất nhiều.
- Hiện nay Trung Quốc dùng chữ giản thể gọi là chữ bạch thoại bây giờ và dạy chữ Hán ở các trường đại học, phổ thông Trung Quốc vẫn là một tử ngữ và người ta vẫn phải học môn cổ văn. Như vậy chữ phồn thể hay chữ Hán như Đài Loan hiện nay đang dùng cũng trở thành tử ngữ như tại Trung Quốc.
Tại sao như vậy? Tất nhiên những người học chữ Hán bảo dễ quá, nhưng chúng ta hình dung như thế này: Một đứa trẻ người Việt 6 tuổi (bắt đầu đi học) chỉ cần một vài tháng học chữ cái là có thể đọc được làu làu mọi con chữ. Chúng ta đưa cho một tờ báo tiếng Việt là các cháu có thể đọc từ đầu đến đuôi được. Trong khi nếu một người đi học chữ Hán thì chúng ta tưởng tượng phải bao nhiêu năm mới đọc thông được một cuốn sách. Do vậy thời gian học tập của người học chữ Hán phải mất rất nhiều năm, hay đơn giản dùng chữ bạch thoại tôi tin rằng ngay cả một sinh viên Trung Quốc tốt nghiệp đại học, để đọc thông viết thạo được tất cả các chữ cũng không phải là dễ.
Đây chính là quốc nạn của Trung Quốc do khối chữ của họ quá khó. Cho nên tôi không thể tin rằng là gần 1,4 tỉ người Trung Quốc hết nạn mù chữ. Không chỉ vùng sâu vùng xa người dân không có cơ hội, không thể học được chữ viết đó. Trong khi tiếng Việt của chúng ta chỉ cần mấy tháng là xóa được mù chữ. Ở đây tôi muốn nói đến tính chất ưu việt của các phương pháp ký tự để truyền tải những tri thức và ký ức xã hội.
- Việc bảo vệ một nền văn hóa không nhất thiết phụ thuộc vào cách thức người ta sử dụng ký tự nào, chữ viết nào và bản thân nền văn hóa được bảo tồn theo nhiều cách khách nhau. Chúng ta không bao giờ đặt ra điều kiện tiên quyết là chúng ta có thể biết được chữ Hán, Nôm mới có thể nghiên cứu được văn hóa Việt, mặc dù trong quá trình tiếp xúc và tiếp biến văn hóa giữa chúng ta và Trung Quốc có lịch sử hàng ngàn năm nay. Thậm chí chúng ta có thể tính trong khoảng 2.000 năm từ thời Hán thuộc. Hệ thống trường học của chúng ta chính thức chỉ chấm dứt việc thi bằng chữ Hán cho đến đầu thế kỷ 20, chính xác là năm 1919.
Như vậy, do sự kiện chúng ta dùng các ký tự và Hán tự để ghi chép sách vở và giảng dạy trong trường cỡ khoảng 2.000 năm, còn bắt đầu tính từ lúc Việt Nam có các triều đại độc lập khoảng 1.000 năm nữa thì hệ thống trường học, cử tử, sách vở của chúng ta đều theo cách thức của nho giáo dạy tứ thư ngũ kinh, do đó Hán ngữ, Hán tự hay chữ Hán hay cách đọc (sau này chúng ta có chữ Nôm) đã ăn sâu vào máu của dân tộc. Nhưng tôi cho rằng rất may mắn cho người Việt là khi tiếp xúc với phương Tây các giáo sĩ đã cho ra bộ chữ của chúng ta.
Chúng ta biết rằng, từ lúc Trung Quốc giành độc lập tới nay có thể tính từ thời Trung Hoa Dân quốc người ta bỏ cực kỳ nhiều thời gian để cải tạo chữ viết, nhưng có vẻ tôi thấy không thành công mà sản phẩm cuối là chữ bạch thoại, giản thể hiện nay và cũng có dùng chữ cái latinh để ký âm lại thế nhưng cái đó chỉ dùng cho người mới học hoặc một phần. Hiện nay cái đó cũng không phổ biến lắm. Có thể nói cuộc cách mạng đi về với chữ cái latinh tức là vượt qua chữ tượng hình đến chữ tượng thanh thì người Trung Quốc không thành công.
- Tôi nói rõ luôn, một trong những học giả lớn nhất về ngôn ngữ học Việt Nam chủ trương thuyết này, đó là cố giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đưa ra thống kê 70% tiếng Việt là từ Hán. Đấy là giả thiết. Nhân đây tôi cũng công bố luôn giả thiết rất mới là 70% tiếng Hán là tiếng Việt. Câu chuyện này của một số nhóm nghiên cứu mà với những phát hiện mới nhất đặc biệt thế kỷ 21 về nguồn gene di truyền + khảo cổ + địa chất + ngôn ngữ người ta thấy hóa ra cư dân ĐNÁ này mới là gốc tích của việc phát triển văn minh.
Người ta thấy rằng từ Đông Phi đi tới ĐNÁ con người đi ngược lên chinh phục sông Hoàng Hà thậm chí đi qua eo biển Bering và vào Châu Mỹ, như vậy thì các Việt (Bách Việt) tham gia và đẻ ra văn hóa Hán. Văn hóa Hán là văn hóa giữa du mục và canh tác cộng lại. Vậy thì có thuyết nói ngược là chính người Hán học tiếng Việt với 70% ngôn ngữ vì họ là gốc tích của những người du mục mà giống thuần chủng là giống Mông Cổ thì thứ nhất là ngôn ngữ của họ ít, thứ hai, người ta dùng tiếng Việt theo cách hành văn của Mông Cổ. Thế là ra cái Hán ngữ. Văn minh Hoa Hạ và văn minh Hán đấy. Như vậy, có hai thuyết ngược nhau kể trên cùng tồn tại.
Phát triển văn hóa văn minh tất nhiên không phải theo một đường thẳng nhưng không có nghĩa chúng ta phải sử dụng tất cả các cái cũ để giải thích cái mới mặc dù có câu ôn cố để tri tân, nhưng rõ ràng với sự phát triển quá đột biến và nhanh chóng của nền kinh tế trí tuệ này thì người ta sẽ nghĩ ra một loại ngôn ngữ chung cho loài người. Lúc này đã có người nghĩ ra ý nghĩ đó tức là dùng ngôn ngữ nhóm latinh tiếng Tây Ban Nha, hy vọng cả loài người dùng nhưng cả thế giới đang nói tiếng Anh. Học thêm ngôn ngữ tiếng Anh đã là chết dở.
Trong khi ở Việt Nam có 54 tộc người thì 53 tộc còn lại họ học tiếng Việt như học ngoại ngữ rồi, giờ thêm tiếng Anh bắt buộc, như vậy học sinh dân tộc thiểu số học 2 “ngoại ngữ”, giờ học thêm tiếng Hán nữa thì một lúc 3 ngoại ngữ. Như thế tôi không hiểu các trường phổ thông có truyền bá được tri thức phổ cập không, hay biến tất cả thành nơi đi học ngoại ngữ hết?!